Bạn đang xem bài viết Hiểu Rõ Về Json Là Gì? Cách Lấy Dữ Liệu Từ Json được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Shnr.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
JSON là gì?JSON là viết tắt của JavaScript Object Notation, là một kiểu định dạng dữ liệu tuân theo một quy luật nhất định mà hầu hết các ngôn ngữ lập trình hiện nay đều có thể đọc được. JSON là một tiêu chuẩn mở để trao đổi dữ liệu trên web.
Định nghĩa“name” : “TopDev”, “title” : “Việc làm IT cho Top Developers”, “description” : “là hệ sinh thái bao gồm cộng đồng các Top Developers.” }
Ta có thể thấy cú pháp của JSON có 2 phần đó là key và value:
Chuỗi JSON được bao lại bởi dấu ngoặc nhọn {}
Các key, valuecủa JSON bắt buộc phải đặt trong dấu nháy kép {“}, nếu bạn đặt nó trong dấu nháy đơn thì đây không phải là một chuỗi JSON đúng chuẩn. Nếu trường hợp trong value của bạn có chứa dấu nháy kép " thì hãy dùng dấu () để đặt trước nó, ví dụ "json là gì".
Nếu có nhiều dữ liệu thì dùng dấu phẩy , để ngăn cách.
Các key của JSON bạn nên đặt chữ cái không dấu hoặc số, dấu _ và không có khoảng trắng., ký tự đầu tiên không nên đặt là số.
File json có thể được lưu với bất kỳ phần mở rộng nào, tuy nhiên thông thường thì nó được lưu dưới phần mở rộng là .json hoặc .js.
JSON ban đầu được phát triển để dành phục vụ cho ứng dụng viết bằng JavaScript. Tuy nhiên vì JSON là một định dạng dữ liệu nên nó có thể được sử dụng bởi bất cứ ngôn ngữ nào mà không bị giới hạn.
Giá trị key trong JSON có thể là chuỗi (string), số (numner), rỗng (null), mảng (array), hoặc đối tượng (object).
Tìm việc làm cho lập trình JSON
Tìm việc làm lập trình Javascript
Cấu trúc chuỗi JSON Object là gì?Object trong Json được thể hiện bằng dấu ngoặc nhọn {}. Khái niệm Object trong Json cũng khá tương đồng với Object trong Javascript. Tuy nhiên, Object trong Json vẫn có những giới hạn như:
Key: phải luôn nằm trong dấu ngoặc kép, không được phép là biến số.
Value: Chỉ cho phép các kiểu dữ liệu cơ bản: numbers, String, Booleans, arrays, objects, null. Không cho phép function, date, undefined.
Không cho phép dấy phẩy cuối cùng như Object trong Javascript.
Kiểu OBJECT var nhat = { "firstName" : "Nhat", "lastName" : "Nguyen", "age" : "34" }; Kiểu OBJECT IN ARRAY var employees = [{ "name" : "Binh", "age" : "38", "gender" : "male" }, { "name" : "Nhat", "age" : "34", "gender" : "male" }, { "name" : "Nhu", "age" : "25", "gender" : "female" }]; Kiểu NEST OBJECT var employees = { "hieu" : { "name" : "Hieu", "age" : "29", "gender" : "male" }, "nhat" : { "name" : "Nhat", "age" : "34", "gender" : "male" }, "nhu" : { "name" : "Nhu", "age" : "25", "gender" : "female" } } Nên sử dụng JSON khi nàoMột trường hợp khá phổ biến trong JavaScript mà dữ liệu được định dạng theo format JSON xuất hiện đó là trong các AJAX request.
$.ajax( type: ‘GET’, success: function(response) { console.log(“Data type: ” + (typeof response)); console.log(“Application name: ” + response.name); }, );
Đoạn code trên sử dụng $.ajax() để gửi AJAX request lên server lấy về nội dung file topdev_info.json. Sau khi lấy về nội dung tập tin này thành công, dữ liệu sẽ được chuyển vào biến response.
Nếu bạn mở developer console của trình duyệt lên (nhấn phím F12) bạn sẽ thấy kiểu dữ liệu của biến response này được JavaScript object với các thuộc tính như name, title, decription.
Dữ Liệu Là Gì? Tầm Quan Trọng Của Dữ Liệu Đối Với Doanh Nghiệp
Tìm Hiểu Dữ Liệu Là Gì?
Dữ liệu được sử dụng cực kỳ nhiều trong đa dạng các lĩnh vực như nghiên cứu khoa học, tài chính, quản trị, quản lý doanh nghiệp và hầu như dữ liệu được sử dụng trong mọi hình thức hoạt động khác của tổ chức. Dữ liệu còn được đo lường, phân tích, thu thấp và báo cáo để có thể tạo ra trực quan đa dạng các dữ liệu như đồ thị, hình ảnh hoặc bảng.
Dữ liệu ở đây chính là một khái niệm chung và luôn được đề cập đến thực tế. Đây là một số thông tin hoặc kiến thức có khả năng được biểu diễn. Đồng thời là mã hóa theo một số hình thức sao cho phù hợp để sử dụng hoặc được xử lý một cách tốt hơn.
Dữ liệu thô ở đây là dữ liệu chưa được qua xử lý. Dữ liệu này là tập hợp các dãy số hoặc các ký tự trước khi các nhà nghiên cứu sửa chữa ra nó. Dữ liệu thô lúc này cần phải được chỉnh sửa mục đích để có thể loại bỏ được các yếu tố ngoại lai. Đặc biệt là loại bỏ các lỗi do quá trình lập dữ liệu dụng cụ đã quá rõ ràng.
Ví dụ như đọc nhiệt kế từ một vị trí trên Bắc Cực thì quá trình xử lý các dữ liệu này thường sẽ xảy ra theo từng giai đoạn khác nhau. Đồng thời dữ liệu này đã xử lý từ giai đoạn trước có thể sẽ được coi là dữ liệu thô đối với giai đoạn tiếp theo.
Dữ liệu hiện trường ở đây là dữ liệu thô đã được thu thập ngay tại môi trường tại chỗ, đồng thời dữ liệu này không được kiểm soát. Dữ liệu thực nghiệm cũng chính là dữ liệu đã được sáng tạo ra trong bối cảnh của một cuộc điều tra khoa học bằng cách quan sát và ghi chép lại.
Dữ liệu thường là khái niệm trừu tượng và có thông tin ít nhất. Theo quan điểm này thì dữ liệu đã trở thành thông tin bằng phương pháp diễn giải.
Ví dụ như nếu độ cao của đỉnh núi Everest được coi là dữ liệu, thì lúc này một cuốn sách viết về đặc điểm của đỉnh núi này sẽ được coi là một thông tin nhất định. Sách hướng dẫn của người leo núi có chứa thông tin thực tế để có thể leo đến đỉnh núi Everest là một kiến thức.
Tổng Hợp Các Phương Pháp Dữ Liệu Được Lưu TrữMáy tính biểu diễn dữ liệu sẽ bao gồm hình ảnh, video, âm thanh và văn bản được tính theo hệ cơ số nhị phân (1 và 0). BIt ở đây là đơn vị dữ liệu nhỏ nhất, đồng thời chỉ biểu thị một giá trị duy nhất. Một byte sẽ tương đương với 8 bits, đồng thời là bộ nhớ và lưu trữ sẽ được đo bằng megabyte cùng với gigabyte.
Các đơn vị đo lường dữ liệu lúc này sẽ tiếp tục phát triển khi lượng dữ liệu đã được thu thập, đồng thời lưu trữ lúc này ngày càng tăng. Ví dụ như thuật ngữ tương đối mới “brontobyte” được biết đến là một đơn vị dữ liệu đại diện cho một số lượng cực lớn các byte. Nó thường được so sánh cùng với 1024 yottabytes hoặc 1027 bytes.
Dữ liệu cũng có thể được lưu trữ dưới định dạng tệp, điển hình như trong đa dạng các hệ thống máy tính lớn được sử dụng ISAM và VSAM. Toàn bộ các định dạng tệp khác sẽ được thiết kế để có thể lưu trữ, chuyển đổi cũng như xử lý dữ liệu bao gồm đa dạng các giá trị sẽ được phân tách nhau bằng dấu phẩy. Các định dạng này sẽ tiếp tục được sử dụng tại đa dạng các loại máy khác nhau.
Chuyên môn hóa cao hơn sẽ được phát triển như cơ sở dữ liệu, hệ quản trị của cơ sở dữ liệu, đồng thời sau đó sẽ phát sinh công nghệ relational database để có thể tổ chức thông tin.
Các Loại Dữ Liệu Và Cách Sử Dụng Dữ LiệuSự phát triển của lĩnh vực công nghệ hiện nay, đặc biệt là điện thoại thông minh đã khiến cho văn bản, video cùng với âm thanh đã được đưa vào dữ liệu cùng với nhật ký trang web. Hầu hết tất cả các dữ liệu này sẽ không có cấu trúc.
Ở đây thuật ngữ Big Data đã được sử dụng trong dữ liệu, mục đích để có thể mô tả dữ liệu được nằm trong phạm vi của petabyte hoặc cao hơn. Big Data lúc này được mô tả bởi 5 đặc trưng đó là:
Khối lượng dữ liệu.
Tốc độ.
Độ tin cậy/ Chính xác.
Giá trị.
Đa dạng.
Ngày nay thì thương mại điện tử dựa trên web cực kỳ phổ biến, đa dạng các mô hình kinh doanh được dựa trên Big Data đã được phát triển một cách rực rỡ, đồng thời họ xem dữ liệu như một loại tài sản quan trọng. Big Data ở đây cũng đem đến cho bạn rất nhiều lợi ích, điển hình như giảm bớt chi phí, nâng cao được hiệu quả và nâng cao được doanh số bán hàng.
Ý nghĩa của dữ liệu được mở rộng ra ngoài quá trình xử lý dữ liệu trong đa dạng các ứng dụng máy tính. Khi nhắc đến khoa học dữ liệu là gì thì một cơ quan đã được tạo nên từ các dữ kiện, người ta sẽ gọi là khoa học dữ liệu. Theo đó thì lĩnh vực tài chính, nhân khẩu học, sức khỏe cũng như tiếp thị cũng sở hữu các ý nghĩa khác nhau của dữ liệu. Cuối cùng sẽ tạo ra các câu trả lời khác nhau cho dữ liệu là gì.
2 Dạng Cơ Bản Của Dữ LiệuDữ liệu được chia thành 2 dạng phổ biến đó chính là
Dữ liệu có cấu trúc ( Structured Data)Dữ liệu có cấu trúc được biết đến là nhóm dữ liệu hoạt động cùng với vai trò lưu trữ, đồng thời là truyền đạt thông tin theo một cấu trúc xác định. Điểm đặc trưng của dữ liệu có cấu trúc chính là:
Dữ liệu có cấu trúc còn có tên gọi khác là dữ liệu định lượng.
Dữ liệu này đưa ra các dữ liệu cùng với số liệu khách quan.
Được thể hiện dưới dạng chữ hoặc số một cách rõ ràng.
Lưu trữ tại Excel, Google Sheet hoặc SQL.
Dữ liệu dễ dàng trong việc thu thập, sắp xếp thông tin và truy xuất.
Dễ dàng trong việc trích xuất mọi thông tin ra bên ngoài.
Dữ liệu không có cấu trúc (Unstructured data)Dữ liệu không có cấu trúc được biết đến là tập hợp đa dạng các dữ liệu khó và phức tạp đã được nhận biết. Dữ liệu này chưa được sắp xếp cũng như tổ chức theo đúng trình tự đã có sẵn. Điểm đặc trưng của dữ liệu phi cấu trúc như sau:
Dữ liệu này còn có tên gọi khác chính là dữ liệu định tính.
Dữ liệu này thường được ở dưới dạng văn bản để có thể thể hiện được quan điểm, ý kiến hoặc là đánh giá thương hiệu.
Lưu trữ trong Solr, Word hoặc Elasticsearch.
Khó thu thập, lưu trữ, sắp xếp thông tin và khó truy xuất.
Không thể sử dụng được các công cụ phân tích dữ liệu, mục đích để có thể tìm kiếm dữ liệu không có cấu trúc.
Phân Tích Dữ Liệu Thường Được Sử Dụng Phương Pháp Nào? Phương pháp nghiên cứu định tínhPhương pháp nghiên cứu dữ liệu định tính đã dựa trên từ ngữ, sự mô tả, đồ vật và hình ảnh. Trong đó thì phân tích dữ liệu dựa trên từ ngữ đã được ưu tiên sử dụng nhiều nhất đối với quá trình phân tích, nghiên cứu. Thông thường thì phương pháp nghiên cứu định tính lúc này sẽ tiến hành thủ công.
Phương pháp nghiên cứu định lượngPhương pháp nghiên cứu định lượng sẽ được tiến hành cùng với mục đích kiểm tra thông tin định danh còn được gọi là nominal information. Toàn bộ các dữ liệu cần chuẩn bị sẵn bao gồm như sau:
Xác định dữ liệu.
Mã hóa dữ liệu.
Chỉnh sửa dữ liệu.
Điểm đặc trưng của phương pháp này đó chính là chỉ thể hiện thống kê bằng những con số chứ sẽ không thực sự đi sâu vào những lý do xuất hiện những con số này. Các chuyên gia dữ liệu dựa vào con số để có thể nghiên cứu và đưa ra nhận định chủ quan.
Chính vì vậy mà năng lực của chuyên gia lúc này sẽ đòi hỏi chuyên sâu. Mục đích để có thể đảm bảo không đưa ra các loại sai lầm. Từ đó để thúc đẩy doanh nghiệp đạt hiệu suất kinh doanh, phù hợp với nhu cầu của thị trường hiện tại.
Dữ Liệu Và Tầm Quan Trọng Đối Với Doanh NghiệpViệc sử dụng được dữ liệu hiệu quả lúc này sẽ giúp cho đa dạng các doanh nghiệp có thể cải thiện được kết quả kinh doanh. Từ đó để có thể đưa ra được chiến lược phát triển thị trường một cách tốt hơn. Đặc biệt là giảm thiểu chi phí, ra quyết định nhanh và chính xác hơn rất nhiều.
Việc phân tích đa dạng các dữ liệu tác động lớn đến các ngành nghề khác nhau điển hình như bán lẻ, dịch vụ tài chính, sản xuất, bảo hiểm hoặc hàng tiêu dùng. Trên thực tế cho thấy, việc các nhà bán lẻ có thể quan sát được đầy đủ đa dạng các hành vi và thói quen mua sắm của khách hàng, mục đích để có thể điều chỉnh hoạt động cho doanh nghiệp tốt hơn.
Internet Là Gì? Tìm Hiểu Về Internet Từ A
Mạng Internet là gì?
Internet là gì? Mạng internet có thể được hiểu đơn giản là một hệ thống có thể cho phép mọi thiết bị có kết nối internet trên toàn cầu sẽ đều có quyền truy cập. Nói cách khác, mạng này chính là một mạng lưới gồm vô số máy tính liên kết được nhanh chóng với nhau. Nó hoạt động như là một hệ thống truyền thông tin àm theo mô hình nối chuyển dữ liệu.
Mạng internet cũng sẽ cung cấp hàng loạt tài nguyên, dịch vụ tiện ích. Nổi bật và cần phải kể đến ứng dụng siêu văn bản in liên kết thật là chặt chẽ với nhau. Đây chính là kho lưu trữ một cách khổng lồ, cho phép người sử dụng thiết bị có thể liên kết với hệ thống mạng truy cập.
Nối tiếp với các phần định nghĩa internet là gì, FPT Cloud sẽ có thể cùng bạn đi tìm hiểu về lịch sử ra đời và phát triển của các trang mạng internet toàn cầu.
Lịch sử hình thành và sự phát triển của mạng InternetMạng Internet được ra đời từ những năm khoảng 1960 với tên gọi là ARPANET. Mạng bắt nguồn ngay từ sự phát triển của chuyển mạch các gói và nghiên cứu do Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ thực hiện ủy quyền thực hiện để cho phép chia sẻ thời gian của các loại máy tính. Sự ra đời này cũng đã đánh dấu một bước tiến dài trong lịch sử phát triển của cả nhân loại và là cuộc cách mạng lớn trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Mạng Internet cũng chính là hệ thống trao đổi thông tin do các trang Paul Baran phát minh. Sau đó, các ông kết hợp với Leonard Kleinrock và Donald Davies để hiện thực hóa được những ý tưởng của mình.
Hình trên chính là một bản trình bày tóm lược về toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của mạng Internet.
Thời gian Sự kiện
Năm 1960
Năm 1965 Donald Davies nghiên cứu về chuyển mạch gói.
Năm 1967 Chuyển mạch gói đã được tích hợp vào thiết kế để đề xuất cho ARPANET.
Năm 1969 Cơ quan để quản lý dự án nghiên cứu phát triển ARPA (Bộ Quốc Phòng Mỹ) tiếp tục thực hiện phát triển ARPANET. Bốn địa điểm ngay đầu tiên là Viện nghiên cứu Stanford, Đại học ở California – Los Angeles, Đại học California – Santa Barbara và ở Đại học Utah được kết nối bằng mạng liên khu vực (Wide Area Network – WAN). Lúc này, các loại máy tính được liên kết với nhau và có các khả năng tự định đường truyền tin ngay sau khi một phần các trang mạng đã được phá hủy.
Năm 1970 ARPANET là một nguồn xương sống kết nối các mạng lưới học thuật và các nơi quân sự khu vực. Các mạng chuyển mạch các loại gói khác như mạng NPL, mạng Merit và mạng CYCLADES được phát triển.
Cuối năm 1971 Mười lăm trang web hiện nay đã được kết nối với ARPANET.
Năm 1972 Trong một cuộc hội nghị về phần quốc tế về truyền thông máy tính, Bob Kahn cũng đã đã trình diễn mạng ARPANET liên kết được cả 40 máy thông qua các bộ xử lý giao tiếp giữa phía những trạm cuối Terminal Interface Processor-TIP. Nhằm có thể đáp ứng nhu cầu thiết lập giao thức bắt tay cùng (agreed-upon), nhóm Internet Working Group (INWG) do toàn vộ Vinton Cerf làm chủ tịch đã được thành lập. Ray Tomlinson phát minh ra ứng dụng Email để gửi thông điệp trên mạng.
Năm 1973 Hợp tác quốc tế trên mạng về ARPANET lần đầu tiên. Các kết nối đã được thực hiện nhanh chóng với Mảng địa chấn Na Uy (NORSAR) thông qua chỉ một trạm vệ tinh ở Tanum, Thụy Điển và các nhóm nghiên cứu của Peter Kirstein tại môi trường Đại học College London. Dự án ARPANET và với các nhóm làm việc quốc tế kết hợp đã có thể dẫn đến sự phát triển của các giao thức và đủ các tiêu chuẩn khác nhau, nhiều mạng làm việc riêng biệt có thể trở thành một mạng hoặc “một mạng hay các mạng”. Đại học Harvard, Bob Metcalfe cũng đã hình thành ý tưởng về ethernet (một giao thức phù hợp trong mạng cục bộ). Vinton Cerf và Bob Kahn đề xuất được những vấn đề cơ bản của Internet. Đây cũng sẽ chính là những nét chính của giao thức TCP/IP.
Năm 1974 Thuật ngữ Internet hiện nay đã được Vint Cerf và Bob Kahn nhắc đến lần đầu tiên dùng như một cách viết tắt cho mạng nội bộ của RFC 675 và các RFC. Các nhà cung cấp về PTT thương mại đã quan tâm đến việc phát triển mạng của dữ liệu công cộng X.25. BBN xây dựng được giao thức ứng dụng Telnet cho phép sử dụng máy tính từ xa.
Năm 1976 Phòng thí nghiệm của công nghệ hãng AT&T phát minh ra dịch vụ truyền tệp cho mạng FTP.
Năm 1978 Tom Truscott và Steve Bellovin đã được thiết lập mạng USENET dành cho những người nào chọn sử dụng Unix. Mạng USENET cũng chính là một trong những mạng phát triển sớm nhất và đã có thể thu hút nhiều người nhất.
Năm 1979 ARPA chính thức thành lập ban kiểm soát cấu hình Internet.
Năm 1980
Năm 1981 Mạng CSNET (Computer Sciences NETwork) ra đời. Hệ thống riêng biệt này cung cấp những dịch vụ mạng cho các nhà khoa học ở tại các trường đại học mà không cần truy cập vào mạng ARPANET.
Năm 1982 DAC và ARPA bắt đầu dùng mạng ARPANET với các giao thức TCP và IP. Sau đó, toàn bộ giao thức Internet (TCP/IP) đã có thể được chuẩn hóa giúp thực hiện phổ biến các mạng kết nối trên toàn thế giới.
Năm 1983 Giao thức TCP/IP hiện đang được coi là chuẩn trong ngành quân sự Mỹ. Tất cả những loại máy tính kết nối với ARPANET đều phải sử dụng chuẩn mới này.
Năm 1984 ARPANET hiện đã được chia làm hai thành phần là ARPANET (chuyên về việc nghiên cứu, phát triển và là mạng dân sự) và cơ sở MILNET (tích hợp dữ liệu quốc phòng và chính là mạng phục vụ cho mục đích quân sự). Những ưu điểm của các giao thức TCP/IP và các chính sách mở cửa riêng của chính phủ đã thúc đẩy việc nghiên cứu và thực hiện thương mại qua ARPANET. Đây cũng chính là tiền đề cho sự hình thành của siêu mạng riêng ở trong tương lai. Hội đồng các hoạt động về mạng Internet ra đời. Sau đó, hội đồng này cũng sẽ được đổi tên thành hội đồng kiến trúc Internet.
Năm 1985 Tổ chức nghiên cứu khoa học quốc gia Mỹ NSF thành lập NSFNET để liên kết được các trung tâm máy tính lớn với nhau. Cơ quan thực hiện quản lý viễn thông Mỹ mở cửa cho một số băng tần riêng của mạng không dây để cho con người dùng sử dụng mà không cần các loại giấy phép của chính phủ. Nhờ đó, các nhà cung cấp đủ loại thiết bị không dây dùng cho mạng LAN đã có thể phát triển các sản phẩm độc quyền của mình. Tuy nhiên, các loại sản phẩm của các công ty không tương thích tốt được với nhau, gây rắc rối cho người dùng. Điều này cũng sẽ đòi hỏi phải xác lập một chuẩn không dây chung.
Năm 1986 Truy cập vào các trang mạng TCP/IP được mở rộng trở lại. Mạng NSFnet sẽ có thể chính thức được thiết lập, kết nối các năm trung tâm máy tính. Mạng Khoa học ở Quốc gia (NSFNet) cung cấp quyền truy cập vào các trang web riêng cùng siêu máy tính ở Hoa Kỳ cho các nhà nghiên cứu. Đây cũng chính là năm có sự bùng nổ kết nối, đặc biệt nhất đó là ở các trường đại học. Trong thời điểm phù hợp này, NSF và ARPANET song song có thể tồn tại theo cùng 1 giao thức, có kết nối với nhau.
Năm 1988 NSFNet hiện nay đã mở rộng thành các tổ chức nghiên cứu và các kết quả học thuật ở Châu u, Úc, New Zealand và Nhật Bản. Dù rằng các giao thức mạng khác như UUCP đã có thể tiếp cận toàn cầu trước thời điểm này, nhưng đây cũng chính là sự khởi đầu của mạng Internet với tư cách một mạng lưới liên lục địa.
Năm 1989 Các nhà cung cấp các loại dịch vụ Internet thương mại (ISP) xuất hiện tại địa điểm Hoa Kỳ và Úc. MCI Mail và Compuserve đã thực hiện thiết lập các kết nối với Internet, cung cấp các loại email và các sản phẩm truy cập công cộng tới hơn cả nửa triệu người dùng Internet.
Năm 1990 PSInet đề xuất sử dụng mạng Internet thay thế cho mục đích về thương mại. Đây là một trong những mạng được thêm thắt vào cốt lõi của Internet thương mại sau này.
Liên kết T1 (1,5 Mbit/s) tốc độ cao nhất đầu tiên giữa NSFNET và châu Âu đã được cài đặt giữa Đại học nổi tiếng Cornell và CERN. Liên kết này cho phép có được khả năng liên lạc hơn nhiều so với khả năng phục vụ của các vệ tinh.
Dự án ARPANET cũng sẽ chính thức ngừng hoạt động. Tuy nhiên, mạng được tìm thấy do NSF và ARPANET tạo ra đã có thể được sử dụng vào mục đích dân dụng. Đây cũng chính là tiền thân của mạng Internet riêng như ngày nay. Lúc này, một số các hãng lớn bắt đầu tổ chức kinh doanh trên mạng.
Đối tượng mong muốn sử dụng Internet chủ yếu phù hợp trong thời gian này là những nhà nghiên cứu. Dịch vụ cực kỳ phổ biến nhất là email và FTP và Internet là 1 loại phương tiện đại chúng. Ước tính về phần lưu lượng truy cập trên Internet công cộng có thể tăng 100% mỗi năm, mức tăng trưởng số lượng người dùng mạng Internet hiện hành hàng năm là từ 20 – 50 %.
Cơ chế hoạt động chính của mạng InternetĐể mạng internet có thể được hoạt động tốt thì trước tiên phải có hệ thống hạ tầng truyền thông. Thành phần trong các loại hạ tầng truyền thông này bao gồm các thiết bị phần cứng và vô số lớp phần mềm.
Cũng giống như là đối với mọi mạng máy tính, internet luôn sẽ bao gồm nhiều bộ định tuyến. Cùng với đó chính là hệ thống cáp, modem, cả bộ lắp đặt. Mỗi gói dữ liệu mạng internet được triển khai riêng bởi nhiều giao thức mạng theo chuẩn động nhất.
Bạn có thể cũng hiểu đơn giản rằng mạng internet giống như mạng lưới cáp quang vật lý trải rộng trên toàn cầu. Bao gồm dây cáp lõi đồng điện thoại, cáp truyền hình và cáp quang. Thậm chí rằng cả dạng kết nối không dây như Wifi, 3G/4G cũng sẽ đều phải dựa vào hệ thống cáp vật lý để duy trì truy cập.
Khi truy cập vào trong một website nào đó, thiết bị của các bạn sẽ gửi yêu cầu qua dây đến một hệ thống các máy chủ. Chức năng riêng cơ bản của máy chủ là việc lưu trữ các website, đồng thời gửi dữ liệu ngược trở lại thiết bị người dùng. Quá trình phù hợp này diễn ra cực nhanh, chỉ trong một vài giây.
Vai trò to lớn của ứng dụng Internet trong xã hội hiện nayNếu như đã có thể hiểu rõ bản chất internet là gì, chắc hẳn các bạn có thể phần nào hiểu rõ tầm quan trọng của mạng lưới này. Sự ra đời nhanh chóng của mạng internet góp phần thay đổi về các xu hướng tìm kiếm, truyền tải thông tin.
Kho lưu trữ các nguồn thông tin khổng lồMạng internet cũng giống như một kho lưu trữ thông tin khổng lồ. Giờ đây khi mà bạn cần tra cứu bất kỳ thông tin này, người dùng chỉ việc truy cập và kiếm trên Google, Bing hay các công cụ hỗ trợ khác.
Mặc dù không phải là bất cứ kiến thức nào cũng đều có trên internet. Thế nhưng cũng không thể phủ nhận những gì mà mạng lưới lớn này đang lưu trữ là vô cùng lớn. Nó sẽ lần tương tự như một cuốn bách khoa toàn thư kỹ thuật số, nơi để mà tất cả mọi người cùng học hỏi, trau dồi kiến thức.
Tạo một môi trường kinh doanh sốKhông chỉ là một nơi lưu trữ vô vàn thông tin, internet cũng đã và đang tạo ra môi trường kinh doanh kỹ thuật số. Đó là nơi mà những người mua và người bán không cần gặp gỡ một cách trực tiếp nhau nhưng vẫn dễ dàng trao đổi mua bán. Internet của các nước doanh nghiệp tiếp cận với cả triệu thậm chí là với cả tỷ khách hàng. Đây là điều mà mô hình kinh doanh theo kiểu truyền thống chưa thể làm được.
Kinh doanh online hiện nay chính là một xu hướng tất yếu của thời đại. Với một sự phổ cập của mạng internet, quá trình thực hiện mua sắm của khách hàng cũng chắc chắn đơn giản và tiết kiệm thời gian hơn.
Mở ra cho toàn thế giới một sự giải trí phong phúThế giới giải trí trên mạng internet mang đầy sắc màu, dễ dàng có thể thu hút bất cứ người dùng nào. Phim ảnh, ca nhạc, các loại tác phẩm văn học hay tất cả loại hình giải trí kiểu khác đều có sẵn trên internet. Đặc biệt hầu hết người dùng cũng đều có thể trải nghiệm những miễn phí.
Chỉ với riêng một chiếc máy tính hay smartphone có kết nối với các mảng internet, bạn sẽ dễ dàng mở ra thế giới giải trí tuyệt vời đa sắc màu. Chính bạn cũng sẽ là người có quyền quyết định tiếp cận với các hình thức giải nào. Nó sẽ rất khác biệt so với việc trải nghiệm của chương trình giải trí qua truyền hình, báo đài truyền thống.
Kết nối được với nhiều người dùng trên toàn thế giớiĐặc biệt rằng ngày nay khi những nền tảng Social Network hiện đang phát triển, quá trình kết nối mọi người với nhau sẽ lại càng dễ dàng hơn.
Các trình duyệt Internet được phổ biến hiện nayTrong phần cuối cùng về mạng Internet, bài viết sẽ giới thiệu đến bạn một số trình duyệt được sử dụng phổ biến nhất hiện nay.
Trình duyệt Google ChromeTrình duyệt Google Chrome hiện đang chính thức phát hành lần đầu từ năm 2008. Sau hơn gần một thập kỷ, đây vẫn là một trình duyệt được sử dụng nhiều nhất.
Ưu điểm cực kỳ dễ nhận thấy của Google Chrome là có giao diện đơn giản nhưng cực kỳ thân thiện. Cùng với đó là tốc độ thực hiện duyệt web vô cùng nhanh và ổn định, tích hợp đa dạng tiện ích.
Bên cạnh đó, kể đến khả năng đồng bộ hóa dữ liệu giữa nhiều thiết bị cũng chính là một tầng điểm cộng lớn của Google. Tuy vậy, trình duyệt này sẽ vẫn ngốn RAM, thiết bị dùng cấu hình thấp thường xuyên bị lag, tải chậm.
Trình duyệt Cốc CốcSau Google Chrome, Cốc Cốc hiện đang nhiều năm liền giữ vị trí trình duyệt phổ biến thứ nhì thị trường Việt Nam. Giao diện của các trình duyệt này gần tương tự như Google Chrome bởi vì trong cả hai đều ứng dụng mã nguồn mở Chromium.
Ưu điểm của trình duyệt Cốc Cốc nằm ở tiện ích tích hợp đa dạng, phù hợp cùng với người dùng Việt. Mặt khác, Cốc Cốc hiện nay không ngốn RAM như Chrome nên cũng có thể chạy tương đối mượt trên thiết bị cấu hình thấp.
Trình duyệt Mozilla FirefoxMozilla Firefox lúc trước đã từng là đối thủ nặng ký của Chrome tại Việt Nam khi Cốc Cốc vẫn chưa ra mắt. Hiện tại, Mozilla Firefox hiện nay vẫn nằm trong top những trình duyệt internet hàng đầu, sở hữu một lượng tải về lớn.
Nghiên Cứu Khoa Học Là Gì ? – Phân Tích Xử Lý Dữ Liệu
Nghiên cứu khoa học là gì?
Nghiên cứu khoa học là quá trình nhận thức hướng vào
Khám phá những thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng; phát hiện các quy luật vận động vốn có của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội nhằm phát triển nhận thức khoa học về thế giới.
+ Tạo dựng các nguyên lý hoàn toàn mới về “công nghệ” nhằm phục vụ cho công cuộc chế biến vật chất và thông tin.
Chức năng của nghiên cứu khoa học
Hai mục đích cơ bản của nghiên cứu khoa học: nhận thức và cải tạo thế giới được thực hiện thông qua các chức năng sau:
Mô tả
Nhận thức khoa học thường được bắt đầu bằng sự mô tả sự vật (đối tượng nghiên cứu). Người nghiên cứu đưa ra hệ thống tri thức về nhận dạng đối tượng nghiên cứu: tên gọi, hình thái, động thái, cấu trúc, chức năng của nó; mô tả định tính nhằm chỉ rõ các đặc trưng về lượng của đối tượng, mô tả định lượng nhằm chỉ rõ các đặc trưng về lượng của đối tượng…giúp phân biệt được sự khác nhau về bản chất giữa đối tượng nghiên cứu với sự vật khác.
Giải thích
Giải thích trong nghiên cứu khoa học là làm roc căn nguyên dẫn đến sự hình thành, phát triển và quy luật chi phối quá trình vận động của đối tượng nghiên cứu; đưa ra thông tin lý giải về bản chất của đối tượng (khẳng định bản chất được phát biểu dưới dạng tính chất, chứng minh tính quy luật của những gì đã khẳng định về bản chất của đối tượng).
Người nghiên cứu đưa ra những thông tin giải thích về nguồn gốc hình thành, động thái, cấu trúc, tương tác, hậu quả của tác động, quy luật chung chi phối quá trình vận động của đối tượng nghiên cứu – đó là những thông tin về thuộc tính bản chất của đối tượng nghiên cứu giúp nhận dạng không chỉ những biểu hiện bên ngoài mà còn cả những thuộc tính bên trong của đối tượng nghiên cứu.
Tiên đoán
Tiên đoán về sự vật là sự nhìn trước quá trình hình thành, phát triển, tiêu vong, sự vận động và những biểu hiện của sự vật trong tương lai.
Nhờ hai chức năng: mô tả, giảu thích mà người nghiên cứu có khả năng ngoại suy, nhìn trước xu thế vận động, quá trình hình thành, phát triển, và sự biểu hiện của đối tượng nghiên cứu trong tương lai.
Sáng tạo
Ngiên cứu khoa học không bao giờ dừng lại ở chức năng: mô tả, giải thích và tiên đoán, mà sứ mệnh có ý nghĩa lớn lao của nghiên cứu khoa học là sáng tạo các giải pháp để cải tạo thế giới. Hơn nữa, nghiên cứu khoa học luôn hướng tới cái mới đòi hỏi sự sáng tạo và nhạy bén của tư duy.
Mục tiêu của nghiên cứu khoa học
Mục tiêu nhận thức: phát triển ngày càng sâu, rộng nhận thức của con người về thế giới, phát hiện các quy luật về thế giới, phát triển kho tàng tri thức nhân loại.
Mục tiêu sáng tạo: nhằm tạo ra công nghệ mới trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, nâng cao trình độ văn minh, nâng cao năng suất trong tất cả các lĩnh vực hoạt động.
Mục tiêu văn hoá và văn minh: mở mang dân trí, nâng cao trình độ văn hoá, từng bước hoàn thiện con người, đưa xã hội lên một trình độ văn minh cao hơn.
Tính mới
Tính mới là thuộc tính quan trọng số một của lao động khoa học. Nghiên cứu khoa học luôn hướng tới những phát hiện mới, không chấp nhận sự lặp lại như cũ dù đó là trong thí nghiệm hay trong cách lý giải và các kết luận. Hướng tới cái mới đò hỏi sự sáng tạo và nhạy bén của tư duy.
Tính thông tin
Tính tin cậy
Một kết quả nghiên cứu đạt được phải có khả năng kiểm chứng lại nhiều lần do nhiều người khác nhau thực hiện trong những điều kiện (quan sát hoặc thí nghiệm) giống nhau và với những kết quả thu được hoàn toàn giống nhau. Khi đó có thể xem kết quả ấy đủ tin cậy để kết luận về bản chất của sự vật hoặc hiện tượng.
Tính khách qua
Cơ sở của tính khách quan trong nghiên cứu khoa học là sự trung thực. Để đảm bảo tính khách quan, người nghiên cứu không được nhận định vội vã theo cảm tính, không được đưa ra kết luận thiếu các xác nhận bằng kiểm chứng, mà luôn luôn phải lật đi lật lại những kết luận tưởng đã hoàn toàn được xác nhận, phải tự trắc nghiệm và kiểm tra chặt chẽ.
Tính mạnh dạn, mạo hiểm
Đòi hỏi người nghiên cứu phải dám đảm nhận những vấn đề, những đề tài chưa có ai nghiên cứu, hoặc các lĩnh vực hết sức mới mẻ.
Chấp nhận khả năng rủi ro, khả năng thất bại trong nghiên cứu khoa học.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu khoa học, thất bại cũng được xem là một kết quả, phải được tổng kết lại, lưu trữ như một tài liệu khoa học nghiêm túc để tránh choi những người đi sau khỏi dẫm chân lên lối mòn, lãng phí nguồn lực nghiên cứu.
Không chỉ quá trình nghiên cứu chịu những rủi ro mà ngay cả những nghiên cứu đã thử nghiệm thành công vẫn chịu những rủi ro trong áp dụng, có thể do kỹ thuật chưa được làm chủ khi triển khai áp dụng trong phạm vi rộng hay vì một nguyên nhân xã hội nào đó…
Tính kinh tế
Đặc điểm của nghiên cứu khoa học
Tuỳ theo mục tiêu nghiên cứu và các sản phẩm thu được sau nghiên cứu mà người ta chia thành những loại hình nghiên cứu khoa học khác nhau. Nghiên cứu khoa học thông thường gồm những loại hình sau:
Nghiên cứu cơ bản (fundamental research)
Nghiên cứu cơ bản là hoạt động nghiên cứu nhằm phát hiện bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, con người, nhờ đó làm thay đổi nhận thức của con người.
Phát hiện (discovery)
Phát hiện là sự khám phá ra những vật thể, những quy luật xã hội đang tồn tại một cách khách quan
Ví dụ: Kock phát hiện vi trùng lao, Galileo phát hiện các vệ tinh của sao hoả, Christoph Colomb phát hiện châu Mỹ…
Phát minh (discovery)
Phát minh là sự khám phá ra những quy luật, những tính chất hoặc những hiện tượng của thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan mà trước đó chưa ai biết, nhờ đó làm thay đổi cơ bản của con người.
Ví dụ: Newton phát minh định luật vạn vật hấp dẫn trong vũ trụ; Lêbêdev phát minh tính chất áp suất của ánh sáng; Nguyễn Văn Hiệu phát minh quy luật bất biến kích thước của tiết diện các quá trình sinh hạt,.v.v.
Phát minh cũng chỉ mới là những khám phá về các quy luật khách quan, chưa có ý nghĩa áp dụng trực tiếp vào sản xuất hoặc đời sống. Vì vậy, phát minh không có giá trị thương mại, không được cấp bằng phát minh và không được bảo hộ pháp lý. Tuy nhiên, người ta lại công nhận quyền ưu tiên của phát minh tính từ ngáy phát minh được công bố.
Xét trên góc độ ý tưởng và mục đích nghiên cứu có thể chia nghiên cứu cơ bản thành hai loại: nghiên cứu cơ bản thuần tuý và nghiên cứu cơ bản định hướng.
Nghiên cứu cơ bản thuần tuý: Nghiên cứu cơ bản định hướng:Nghiên cứu cơ bản định hướng là hoạt đọng nghiên cứu cơ bản nhằm vào mục đích nhất định hoặc để ứng dụng vào những dự kiến định trước..
Ví dụ: Hoạt động thăm dò địa chất mỏ hướng vào mục đích phục vụ nhu cầi khai thác khoáng sản; các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên, kinh tế, xã hội…đều có thể xem là nghiên cứu cơ bản định hướng.
Nghiên cứu nền tảng (Background research): là hoạt động nghiên cứu về quy luật tổng thể của một hệ thống sự vật.
Chẳng hạn: điều tra cơ bản tài nguyên; nghiên cứu khí tượng; nghiên cứu bản chất vật lý, hoá học, sinh học của vật chất; điều tra cơ bản về kinh tế, xã hội…đều thuộc về nghiên cứu nền tảng.
Chẳng hạn: điều tra cơ bản tài nguyên; nghiên cứu khí tượng; nghiên cứu bản chất vật lý, hoá học, sinh học của vật chất; điều tra cơ bản về kinh tế, xã hội… đều thuộc về nghiên cứu nền tảng.
Nghiên cứu chuyên đề (thematic research): là hoạt động nghiên cứu về một hiện tượng đặc biệt của sự vật.
Nghiên cứu cơ bản là một hoạt động, một công việc không thể thiếu trong nghiên cứu khoa học. Nó trở thành nền tảng, cơ sơ cho các hoạt động nghiên cứu khác như: nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu triển khai.
Nghiên cứu ứng dụng (applied research)
Nghiên cứu ứng dụng là hoạt động nghiên cứu vận dụng các quy luật đã được phát hiện từ nghiên cứu cơ bản để giải thích sự vật, tạo dựng các nguyên lý công nghệ mới, nguyên lý sản phẩm mới và nguyên lý dịch vụ mới, áp dụng chúng vào sản xuất và đời sống.
Sáng chế (invention)
Sáng chế là một giải pháp kỹ thuật mang tính mới về nguyên lý kỹ thuật, tính sáng tạo và áp dụng được.
Ví dụ: Máy hơi nước của James Wart, công thức thuốc nổ TNT của Nobel, công nghệ di truyền…là những sáng chế.
Điều cần lưu ý là, điểm xuất phát của nghiên cứu ứng dụng là ở chỗ: nhận thức của con người không bao giừo có mục đích tự thân mà kết quả nhận thức phải quay trở về thực tiễn. Do đó, việc nghiên cứu ứng dụng là một tất yếu trong hoạt động nghiên cứu khoa học và nó gắn bó chặt chẽ với nghiên cứu cơ bản. Kết quả của nghiên cứu ứng dụng là sự cụ thể hoá kết quả nghiên cứu cơ bản vào trong các lĩnh vực của sản xuất và đời sống. Nó là khâu quan trọng làm cho khoa học, kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tuy nhiên, để có thể đưa kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn thì còn cần tiến hành loại hình nghiênc cứu triển khai.
Nghiên cứu triển khai (developmental research)
Nghiên cứu triển khai là hoạt động nghiên cứu vật dụng các quy luật (thu được từ nghiên cứu cơ bản) và các nguyên lý công nghệ hoặc nguyên lý vật liệu (thu được từ nghiên cứu ứng dụng) để đưa ra những hình mẫu về một phương diện kỹ thuật mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới với những tham số đủ mang tính khả thi về mặt kỹ thuật.
Nghiên cứu triển khai bao gồm cả quá trình thiết kế thử nghiệm và mô hình thử nghiệm. Vì vây, nghiên cứu triển khai chia thành hai loại: Triển khai trong phòng: là loại hình triển khai thực nghiệm hướng vào việc áp dụng trong điều kiện của phòng thí nghiệm những nguyên lý thu được từ nghiên cứu ứng dụng nhằm khẳng định kết quả sao cho ra được sản phẩm chưa quan tâm đến quy mô áp dụng.
Triển khai bán đại trà: còn gọi là pilot trong các nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật và khoa học công nghệ; là dạng triển khai nhằm kiểm chứng giả thuyết về một hình mẫu trên một quy mô nhất định, thường là quy mô áp dụng bán đại trà nhằm xác định những điều kiện cần và đủ để mở rộng áp dụng đại trà.
Nghiên cứu thăm dò (survey research)
Nghiên cứu thăm dò là hoạt động nghiên cứu nhằm xác định hướng nghiên cứu, là dạng thăm dò thị trường để tìm kiếm cơ hội nghiên cứu.
Nghiên cứu thăm dò có ý nghĩa chiến lược với sự phát triển của khoa học, nó đặt nền tảng cho việc nghiên cứu, khám phá những bí ẩn của thế giới vật chất, là cơ sở để hình thành nhiều bộ môn, nhiều ngành khoa học mới, những nghiên cứu thăm dò không thể tính toán được hiệu quả kinh tế.
Tư duy trong nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học là quá trình nhận thức, một hoạt động trí tuệ đặc thù, trong đó người nghiên cứu phải sử dụng tư duy lôgic (tư duy trừu tượng) – giai đoạn cao của quá trình nhận thức; là công cụ chủ yếu của nghiên cứu khoa học, nhờ đó mà phân biệt được về bản chất sự vật này với sự vật khác. Ở đây, nhận thức được tiến hành một cách gián tiếp thông qua ngôn ngữ với các hình thức: khái niệm, phán đoán, suy luận.
Khái niệmCấu trúc logic của khái niệm:
Khái niệm bao gồm hai bộ phận hợp thành: nội hàm và ngoại diên.
Nói cách khác: nội hàm của khái niệm chứa dấu hiệu riêng biệt, bản chất của sự vật, hiện tượng mà khái niệm đó phản ánh.
Như vậy, nội hàm của khái niệm là tất cả những thuộc tính bản chất, vốn có của sự vật, hiện tượng. Nội hàm trả lời câu hỏi: sự vật là cái gì?
của khái niệm là tập hợp những sự vật, hiện tượng có chứa những dấu hiệu được phản ánh trong nội hàm: Tập hợp những sự vật, hiện tượng tạo thành ngoại diên của khái niệm gọi là “lớp”.
Như vậy, ngoại diên của khái niệm là tập hợp tất cả những các cá thể có chứa thuộc tính chung được chỉ trong nội hàm. Ngoại diên trả lời câu hỏi: có bao nhiêu sự vật như vậy?
Bảng 2: Ví dụ về nội hàm và ngoại diên của khái niệmKhái niệm
Nội hàm
Hệ thống tri thức về:
– Khoa học tự nhiên.
Khoa
– Bản chất và quy luật của tự
học
nhiên, xã hội và con người.
– Các biện pháp cải tạo thế giới
Dụng cụ đo thời gian
Thủ đô
Hà Nội, Bắc Kinh, Matxcơva, Pari…
Các loại khái niệm:+ Nếu xét theo ngoại diên thì có những loại khái niệm sau:
Khái niệm đơn nhất: là khái niệm chỉ phản ánh từng sự vật, hiện tượng riêng lẻ. Ví dụ: Hà Nội, Sông Hồng,…
Khái niệm tập hợp: là những khái niệm gộp các đối tượng thành một chỉnh thể duy nhất. Ví dụ: lớp học, đội bóng…
Khái niệm trống rỗng: là những khái niệm không chứa một đối tượng nào trong hiện thực. Ví dụ: ma, thiên đường, ngáo ộp…
Khái niệm cụ thể: cái bút, quyển sách…
Khái niệm trừu tượng: là khái niệm phản ánh những thuộc tính, còn bỏ qua những mối liên hệ và không thể lượng hoá được. Ví dụ: trung thực, thật thà, láu cá…
Khái niệm phủ định: là khái niệm biểu thị sự vắng mặt của các dấu hiệu chứa đựng trong nội hàm của khái niệm khẳng định. Ví dụ: anh A không đẹp trai, chị B không xinh gái…
Khái niệm tương quan: là khái niệm phản ánh mối quan hệ giữa các đối tượng. Ví dụ: ngày – đêm, cao – thấp, đen – trắng, âm – dương…
Các quy luật đặc thù của tư duy lôgic
Quy luật đồng nhất:Quy luật đồng nhất phát biểu: mỗi tư tưởng phải luôn luôn đồng nhất với chính nó.
Quy luật đồng nhất yêu cầu: trong quá trình tư duy không được tự ý thay đổi nội dung khái niệm, không được đánh tráo khái niệm, nếu vi phạm yêu cầu này làm cho tư duy rối loạn, không thể phản ánh đúng sự vật, hiện tượng.
Quy luật mâu thuẫn phát biểu: có hai ý kiến trái ngược nhau về một đối tượng trong cùng một thời gian và không gian thì không thể cả hai cùng đúng mà ít nhất có một ý kiến sai.
Quy luật này đòi hỏi: tư duy đứng đắn là phải dựa trên những mệnh đề nhất quán, có như vậy mới phản ánh đúng sự vật; quy luật này không cho phép tư duy có mâu thuẫn (ở đây cần phân biệt mâu thuẫn của tư duy lôgic với mâu thuẫn của phép biện chứng).
Quy luật bài trung phát biểu: một sự vật trong một quan hệ xác địnhnếu có hai phán đoán mâu thuẫn nhau thì trong đó một phán đoán đúng và một phán đoán sai, không thể có phán đoán thứ ba.
Quy luật lý do đầy đủ:
Quy luật này không cho phép tư duy đưa ra những phán đoán, những suy luận mang tính chủ quan.
Người nghiên cứu khoa học cần quán triệt các quy luật trên để hướng tư duy khoa học của mình theo đúng hướng đích nhằm đạt kết quả cao trong hoạt động nghiên cứu khoa học.
Khu Mấn Là Gì? Trốc Tru Là Gì? Tìm Hiểu Về Từ Ngữ Địa Phương
Khu: Có nghĩa là Mông
Mấn: Có nghĩa là Váy
“Khu mấn” có nghĩa là phần mông mặc váy đen vải thô của các bà, các mẹ, các chị, các em tại vùng quên xứ Nghệ trong những năm 60, 70.
Trong thời kỳ đó, sau một ngày làm việc các bà, các mẹ sẽ ngồi lê hóng mát và buôn chuyện, không cần sử dụng ghế, các bà, các mẹ có thể đặt mông xuống bất cứ đâu để ngồi, có thể là bờ cỏ, gốc cây, sân đình… Vì thế phần vải chỗ mông thường nấm bẩn, đất bám dày cộm nhìn trông rất ghê.
Khu mấn là gì?
Cụm từ “khu mấn” còn được người dân Nghệ An sử dụng với một nghĩa bóng để nói về giá trị, thái độ làm việc và đối tượng mà người nói không thích.
Ngoài ra, “khu mấn” còn là một loại quả của người Nghệ An, nếu như có dịp nào đó mà bạn đi du lịch hoặc tiếp xúc với người Nghệ An mà họ mời bạn ăn quả “khu mấn” thì bạn đừng có tin, họ đang trêu chọc bạn đó. Trái khu mấn không có thật, đó được xem là một tiếng lóng của người dân xứ Nghệ.
Một số ví dụ về từ khu mấn
Ví dụ:
A: Cậu xem cái áo này của tớ của đẹp không?
B: Nhìn như cái khu mấn vậy?. (có nghĩa là chiếc áo đó xấu).
Cụm từ “khu mấn” cũng được nói về sự nghèo khó.
Ví dụ:
A: Tớ nghe nói dạo này công việc của cậu phát triển giàu có lắm phải không?
B: Có cái khu mấn thôi cậu à. (Có nghĩa là bạn ấy không giàu có, chỉ đủ sống, thậm chí là nghèo khó)
Trốc: Có nghĩa là Cái đầu
Tru: Có nghĩa là Con trâu
“Trốc tru” trong tiếng Nghệ An sẽ có nghĩa là “đầu trâu”, thường dùng để nói về những người có tính nghịch ngợm, bướng bỉnh, phá phách, lì lợm nói mãi mà không chịu nghe, không chịu thay đổi.
Trốc tru là gì?
Tuy nhiên, “trốc tru” được người xứ Nghệ sử dụng mang một tính chất nhẹ nhàng, không phải là mắng mỏ, hay chửi bới, nó thường được sử dụng với mục đích là trêu đùa.
Nếu như bạn đã biết được “khu mấn là gì“, “trốc tru là gì” thì bạn cần chú ý đến cách sử dụng từ “khu mấn và trốc tru” để đúng với ngữ cảnh.
“Khu mấn và trốc tru” được xem là từ lóng của xứ Nghệ, nó mang tính chất vui vẻ, hài hước, không đặt nặng vấn đề “giáo dục hay phê phán”, vì thế bạn có thể sử dụng từ “khu mấn và trốc tru” để trêu chọc bạn bè của mình.
Mỗi một vùng miền sẽ có những bản sắc và phương ngữ khác nhau, vì thế ngoài từ “khu mấn và trốc tru” xứ Nghệ còn rất nhiều những phương ngữ khác như:
STTPhương ngữ xứ NghệÝ nghĩa1Cái chủiCái chổi2Cái đọiCái bát3Cái cươiCái sân4ChưởiChửi5Cái vung/vàngCái nắp nồi6Cái nớCái đó, cái kia7CấyCái8ChaoChúng tao9TrửaGiữa, trên10ĐàngĐường11BổNgã12Trấp váĐùi13HunHôn14GưởiGửi15TauTao, tớ16HấnHắn, nó17MiMày18MầnLàm19Lũ bâyCác bạn20TrùTrầu
Lời kết
Xứ Nghệ luôn mang những bản sắc riêng, vì thế khi nhắc đến xứ Nghệ không chỉ có đặc sản cháo lươn mà còn cả những phương ngữ đậm đà bản sắc, tạo nên một nét riêng độc đáo của người xứ Nghệ. Đến đây chắc hẳn là bạn đã biết được “khu mấn là gì“, “trốc tru là gì” rồi phải không nào?. Mình hi vong bài viết này đã giúp bạn hiểu hơn về bản sắc văn hóa của người dân xứ Nghệ thân thương!
Hiểu Đúng Về Từ バカ (Baka) – Cách Chửi Ngu Của Người Nhật
Dù có rất nhiều lý thuyết xung quanh ý nghĩa đằng sau của バカ (baka), lý thuyết được chấp nhận nhiều nhất đến từ một điển tích của Trung Quốc. Vị tướng nọ muốn soán ngôi vua, đã dắt một con hươu đến tiến vua, thế nhưng ông lại nói rằng “Tôi đến để tặng Ngài một con ngựa hùng dũng”.
Ông dùng cách này để kiểm tra số lượng quan trong triều dưới trướng của mình so với lực lượng của nhà vua. Những người sợ hãi trước quyền lực của vị tướng sẽ khăng khăng nói rằng đó là ngựa, trong khi một số vẫn thật thà bảo rằng đó là hươu. Những người ấy sau này bị vị tướng thẳng tay trừ khử không thương tiếc.
Từ đó cụm từ 指鹿為馬 (Shirokuiba) – Chỉ hươu bảo ngựa ra đời, ám chỉ kẻ ngu ngốc không biết nương theo chiều gió. Đồng thời chỉ trích vào sức mạnh của quyền lực có thể bẻ cong sự thật.
Ở Osaka, từ Baka mang hàm ý xúc phạm nên mọi người ít dùng
Tất nhiên, Baka dù được sử dụng ở đâu, cũng thường mang ý nghĩa xấu. Thế nhưng tùy vùng miền mà mức độ nặng nhẹ cũng khác nhau.
Ví dụ ở vùng Kanto, nếu người lạ dùng từ này với bạn có nghĩa là họ muốn trêu chọc, đùa cợt chế nhạo nhẹ nhàng. Baka còn được sử dụng bởi thành viên trong gia đình, gồm 2 nghĩa, hoặc là bằng với “Kawaii” (đáng yêu) hoặc là “Shouganai” (Hết cách rồi).
Cũng giống như sự khác biệt trong cách dùng từ “Ngu” ở miền Bắc và miền Nam Việt Nam vậy. Người miền Nam dùng từ “Ngu” với bạn bè, thế nhưng ở phía Bắc, “Ngu” là từ chửi mang ý nghĩa nặng nề.
Thay vào đó, người Kansai thường dùng từ Aho để trêu chọc bạn bè hơn. Thật ra giữa Baka và Aho có chút khác biệt chứ không phải là khác nhau giữa cách sử dụng giữa hai vùng đâu. Baka ý chỉ những người có thể đầu óc không tệ, nhưng lười suy nghĩ, không chịu suy nghĩ còn Aho lại ám chỉ người không có khả năng suy nghĩ. Nhìn chung, từ Aho có nghĩa khắc nghiệt hơn Baka.
Thế nhưng nếu bạn ở Hokkaido, không cần phải suy nghĩ nhiều đến sự khác biệt này, vì Hokkaido là tổ hợp dân cư từ nhiều vùng của Nhật Bản. Nhân tiện, tại đó cũng có một phiên bản khác của Baka đó là はんかくさい (Hankakusai) hay たくらんけ (Takuranke) theo phương ngữ cũ.
Ở Tokyo, từ Baka thường được dùng để trêu chọc bạn bè
Như đã nói ở trên, ở vùng Kanto, thỉnh thoảng Baka có ý nghĩa như ngốc một cách đáng yêu hoặc buồn cười.
Ngoài ra, バカ (baka) còn ám chỉ những người thật sự đam mê một cái gì đó. Ví dụ như 野球バカ (những kẻ cuồng bóng chày), 日本語バカ (cuồng tiếng Nhật). Bạn có dám vỗ ngực tự xưng mình là một Nihongo Baka không? Nếu Baka được hiểu theo nghĩa này, không phải tất cả chúng ta đều là lũ ngốc hay sao?
Thỉnh thoảng, người Nhật dùng Baka riêng lẻ, đôi khi, họ muốn dùng thành tổ hợp từ. Bạn nên nhớ, đễ nhỡ có bị ai nói còn biết là họ đang chửi mình.
大馬鹿
(
おおばか
) – Ō baka: Đại ngốc
激馬鹿
(
げきばか
) – Gekibaka: Ngu hặng nặng
超馬鹿
(
ちょうばか
) – Chō baka: Ngu không phải dạng vừa
馬鹿野郎
(
ばかやろう
) – Bakayarou: Thằng ngu
大馬鹿野郎
(
おおばかやろう
) – Ō baka yarou: Thằng đại ngu
Nếu bạn sống ở Nhật thì học ngôn ngữ chửi và từ lóng tiếng Nhật cũng rất cần thiết, không hẳn để bạn chửi mà để bạn hiểu được thái độ của mọi người xung quanh. Vì từバカ (baka) – đồ ngốc được sử dụng nhiều nhất nên hiểu đúng về nó sẽ giúp bạn phân biệt được lúc nào người ta đang chửi lúc nào chỉ đang chọc vui thôi.
Cập nhật thông tin chi tiết về Hiểu Rõ Về Json Là Gì? Cách Lấy Dữ Liệu Từ Json trên website Shnr.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!